GIAI PHẨM XUÂN MẬU TUẤT-2018 SƯ PHẠM ÁO NÂU ĐÀ LẠT
Chúc mừng Xuân mới
Chúc gia đình SƯ PHẠM ÁO NÂU và tất cả bạn đọc năm mới Xuân Mậu Tuất-2018
SỨC KHỎE, BÌNH AN, DÂN CHỦ, TỰ DO, HẠNH PHÚC!
Mục Lục
1.Trần Nhân Tông truyền ngôi, dạy con giữ nước, kính tín chính pháp–Cư sĩ Nguyễn Đức Sinh:
2.Hậu Bình Ngô Đại Cáo – Bùi Chí Vinh
3.Tôi yêu tiếng nước tôi–Mạnh Kim:
4.Một bước! Cả tổ tiên nằm trong môt bước! –Cao Huy Thuần.
5. Tự Do-Thơ Việt Bách
6.Quyền tự do của nhà văn đến đâu? Chu Mộng Long ( Viết gì về truyện ngắn “Bắt đầu và Kết thúc”?
7.Tổng quan về Khai sáng và phong trào Khai sáng–Nguyễn Trọng Khánh
8.Gốc vững bền của một quốc gia chỉ có thể là Dân Chủ-Lưu Trọng Văn
9.Những “Thánh Gióng” thời hiện đại…Nguyễn Quang Nhàn
10.Cái Gốc–Nguyễn Duy
11.“Thời đại tôi đang sống” – Nguyễn Thị Thanh Yến
12.Đừng để tiếng Việt khóc thành «Tiếq Việt»-Kyo York
13.Mạ tôi : đưa con về Làng-Phạm Mai Hương
14.Trung tâm Đà Lạt : làm đẹp hay phá vỡ không gian kiến trúc?-Mai Thái Lĩnh
15.Tự kiểm đầu năm–Đào Hiếu
16.Nghĩ về Con Người Đà Lạt-Hoàng Liên
17.Nguy cơ “biến mất” nhiều di tích lịch sử
Trần Nhân Tông truyền ngôi, dạy con giữ nước, kính tín chính pháp
…”Kính thưa phụ vương, thuật đánh xâm lược của phụ vương con đã hiểu. Vậy, kính xin phụ vương dạy con căn bản giữ nước như thế nào cho bền vững?
Đức vua dạy Thái tử Trần Anh Tông: Con muốn quốc gia cường thịnh và yên ổn thì con phải dạy nhân dân như sau:
”
Khi nói đến lịch sử thời Lý – Trần, là người ta nghĩ ngay đến một quốc gia Phật giáo, bởi Phật giáo đã thể nhập toàn diện vào đời sống con người, xã hội và dân tộc ta thời ấy. Nhờ tín ngưỡng Phật giáo mà dân tộc ta có được sự cấu kết lòng dân trong việc dựng nước và giữ nước để đánh bại giặc ngoại xâm. Đó là ba cuộc kháng chiến đại thắng Nguyên – Mông vĩ đại. Nhìn lại lịch sử thời Trần, chúng ta càng thấy vị trí và vai trò không nhỏ của đạo Phật trong việc giữ nước an dân. Về điều này, P.Tilich, nhà nghiên cứu tôn giáo Nga nói: “Tín ngưỡng tôn giáo là mối quan tâm cao nhất của con người và tôn giáo là nội dung thiết yếu của văn hóa”.
Mở đầu, đức vua nói: Thưa quý cụ cao niên; thưa quan chức trong triều và địa phương; thưa các vị có công lớn với quốc gia; thưa những vị đại diện nhân dân; thưa thân nhân trong hoàng tộc. Hôm nay, triều đình nhà Trần tổ chức lễ truyền ngôi vua lại cho con chúng tôi là Thái tử Trần Anh Tông, để thay tôi cai quản quốc gia Đại Việt này.Tôi là quốc vương Trần Nhân Tông, cai quản nước Việt Nam. Trước tiên, thăm hỏi sức khỏe quý cụ, quý vị, sau tôi có đôi lời dạy con chúng tôi:
Soi lại tấm gương lớn lịch sử dân tộc, người viết bài này bỗng nhớ, và cần phải nhắc lại câu nói của Giáo sư Cao Huy Thuần khi đề cập về đạo Phật thời Lý Trần trong bài “Hãy bay với hai cánh vào hiện đại” (Nhân tuần Văn hóa Phật giáo 2012 tại Nghệ An) giáo sư nói với giới trẻ như thế này: “Chẳng lẽ đạo Phật trí tuệ đã bay cả rồi qua bên Tây? Chẳng lẽ Tây phương thừa hưởng hết tinh túy của Phật giáo? May thay chúng ta rất giàu lòng tin, nhưng buồn thay, lắm khi, lắm nơi vẫn còn mê tín, đó không phải là đạo Phật. Không, nhất thiết ta không để gãy đôi cánh trí tuệ của con đại bàng Lý Trần. Nhất quyết ta củng cố lòng tin chân chính”.Đoạn văn trên, như một lời thôi thúc nhắc giới trẻ nước nhà cần phải thay đổi cách tiếp cận giáo lý đạo Phật bằng tư duy khoa học, khi mà giáo lý của đạo Phật đang được các nước phương Tây đón nhận với một thái độ minh triết và khoa học. Có như vậy, mới không hổ thẹn với cha ông và dân tộc.
HẬU BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
– Bùi Chí Vinh
– Tôi yêu tiếng nước tôi
Mạnh Kim
Không còn nhớ ai là người đầu tiên dịch “Gone with the wind” thành “Cuốn theo chiều gió” nhưng vị nào dịch câu này hẳn nhiên là bậc thượng thừa về ngôn ngữ nói chung và rất giỏi tiếng Việt nói riêng.
Ông Huỳnh Phan Anh cũng khắc tên mình vào bảng mạ vàng khi dịch “For whom the bell tolls” thành “Chuông nguyện hồn ai” (phải là “nguyện”, chứ không phải “gọi” – như các bản dịch sau 1975, nghe mới “đã” và mới đúng với ý như câu chuyện của tác phẩm Hemingway). Cụ Bùi Giáng cũng thuộc vào nhóm người “giáng thế” khi dịch “Terre des Hommes” (Vùng đất của người) thành “Cõi người ta”.
Cụ Phạm Duy là một bậc tài hoa xuất chúng nữa với các tác phẩm chuyển ngữ lời Việt. Ca khúc “The house of the rising sun” đã được cụ chuyển thành “Chiều vàng dưới mái nhà tranh”. So sánh từng câu từng từ trong các ca khúc chuyển ngữ của thiên tài Phạm Duy, không thể nói gì hơn ngoài sự kính phục tột bậc. Trong Love Story, ca khúc rất phổ biến Sài Gòn thập niên 1970 mà cụ Phạm chuyển ngữ, có những từ được diễn đạt mà chỉ những bậc thượng thừa tiếng Việt mới thể hiện nổi, chẳng hạn “this empty world” thành “cuộc đời vắng ngắt”; hoặc “wild imaginings” thành “mộng huyền mênh mang”…
Có một điểm chung giữa những bậc kỳ tài Phạm Duy, Bùi Giáng hoặc vô số văn sĩ, nhạc sĩ cùng thời với họ, là: “Tôi yêu tiếng nước tôi!”. Chỉ những người thật sự yêu quý tiếng nói của dân tộc mình mới biết cách làm đẹp ngôn ngữ. Họ nhảy múa với ngôn ngữ. Họ thăng hoa với ngôn ngữ. Họ bay bổng với ngôn ngữ. Sự cuồng nhiệt trong tình yêu ngôn ngữ của họ đã tạo ra một nền văn hóa trong đó tiếng Việt vượt qua cả khái niệm ngôn ngữ như là ký hiệu giao tiếp thuần túy mà vươn lên đến chóp đỉnh của một thứ trừu tượng hơn: linh hồn dân tộc. “Tôi yêu tiếng nước tôi”. Tình yêu của họ với tiếng Việt đã làm đẹp tiếng mẹ đẻ, làm sang trọng tiếng mẹ đẻ, và cuối cùng làm nên một nền văn hóa đẹp đẽ.
Chỉ những giai đoạn tiếng Việt bay bổng thì nền văn hóa mới thăng hoa, hay là ngược lại, thật khó có thể nói chính xác. Nhưng, có thể đoan chắc rằng một nền văn hóa xuống cấp luôn đi đôi với việc ngôn ngữ và cách dùng ngôn ngữ xuống cấp. Nó bị dùng sai là một chuyện. Nó bị xem thường mới là điều đáng nói. Khi tiếng Việt không còn được tôn trọng, văn hóa và xã hội sẽ không còn được tôn trọng. Con người cũng không còn được tôn trọng. “Tiếng Việt còn, nước ta còn”. Nhưng tiếng Việt bầy hầy, như đang thấy trên báo chí hàng ngày, trong các ca khúc được hàng triệu người nghe, thì “nước ta” còn gì?
Đừng trông chờ ở những khẩu hiệu “giữ gìn tiếng Việt” hay “làm trong sáng tiếng Việt” hô hào chiếu lệ trong nền giáo dục hiện tại. Tiếng Việt đang bị hỏng không chỉ bởi các MC tung hứng bừa bãi với những câu chữ làm màu “cho sang”, như “điểm trang” thay vì phải nói cho đúng là “trang điểm”; không chỉ bởi các phát thanh viên truyền hình học nhau cách nói rập khuôn, hay các nhà báo viết bài không bao giờ xem lại lỗi chính tả; không chỉ bởi những cách dùng sai như “cặp đôi” hay “fan hâm mộ”; không chỉ bởi các từ ghép Hán-Việt vô nguyên tắc như “phượt thủ”…
Nguồn gốc khiến tiếng Việt hư chính là từ giáo dục. Không ngôn ngữ nào có thể bay bổng trong một mô hình giáo dục giáo điều. Chẳng ai có thể sửa lại tiếng Việt với đà tuột dốc của nền giáo dục hiện nay. Muốn “làm trong sáng tiếng Việt”, hệ thống giáo dục phải tự làm trong sáng mình. Điều này sẽ chẳng bao giờ có, không bao giờ thành hiện thực, khi mà giáo dục đang nằm dưới bàn chân của những “chủ trương” và “đường lối”. Đừng mong chờ những thay đổi trong giáo dục. Sẽ chẳng có thay đổi tích cực gì cả. Tiếng Việt sẽ tiếp tục bị hành hạ và văn hóa sẽ tiếp tục bị tra tấn.
Dường như không ai có thể cứu tiếng Việt nhưng tiếng Việt có thể được cứu nếu mỗi người trong chúng ta cùng quay lại với con đường “tôi yêu tiếng nước tôi”. Tìm kiếm và đọc lại những quyển sách của một thời làm nên sự kỳ vĩ một nền văn hóa, như một cách thức tự giải độc khỏi những luồng khí đen đang bủa quanh, có thể được xem là một cách thức. Nhiều giá trị hiện bị mất đi đang nằm trong những quyển sách đó. Văn hóa sẽ đi lạc vĩnh viễn nếu chẳng có ai tìm. Con đường đi tìm văn hóa đã mất có thể sẽ giúp tìm lại ánh hào quang của tiếng Việt, và cuối cùng, dẫn đến việc nhìn lại sự cần thiết phải tôn trọng tiếng Việt.
Không người dân nào có thể thay đổi được hệ thống giáo dục hiện tại. Họ không có quyền hạn để làm điều đó. Tuy nhiên không ai có thể ngăn chặn sự chọn lựa để dung nạp một nền văn hóa khác với “hệ văn hóa” nhồi sọ và tuyên truyền. Cũng không ai có thể ngăn chặn sự chọn lựa đọc gì bên ngoài phạm vi những bài văn mẫu hay nên đọc gì trên những trang mạng xã hội. Đó là sự chọn lựa cần thiết, và cấp bách, để “tôi yêu tiếng nước tôi” có thể còn tồn tại và còn có cơ may truyền lại cho hậu sinh.
FB MẠNH KIM 02.12.2017
http://thuymyrfi.blogspot.co.id/2017/12/manh-kim-toi-yeu-tieng-nuoc-toi.html
Một bước! Cả tổ tiên nằm trong môt bước!
Cao Huy Thuần
DIỄN TỪ
…”Một dân tộc sống với cái đầu hoài nghi, cái chân bỏ phiếu, là một dân tộc đang tự thắp nhang cho mình, làm mồi cho cú vọ. Nếu ai có chút tiền đều muốn đưa con ra ngoài để học rồi để ở lại, thì tim đâu để máu chảy về? Thì đâu còn định nghĩa được tôi là ai? Thì lấy người khác làm mình. Thì đâu là “dân khí”? Cái “hồn” nằm ở đâu? “….
….“Ngoại xâm trước mắt đâu phải chỉ lấn đất lấn biển. Nó lấn cái đầu. Cái đầu ấy, ngoại xâm muốn ta giống nó. Nó rất sợ ta khác nó. Nó muốn ta giống nó bằng văn hóa, bằng ý thức hệ. Nó sợ ta khác nó với Phan Châu Trinh.“…
…”dân tộc là sự giao thoa của hai thỏa thuận song song: thỏa thuận giữa người dân với nhau cùng sống cùng chết trên cùng mảnh đất của tổ tiên; thỏa thuận giữa người dân với chính quyền để cùng nhau đảm đương việc nước. Một bước. Cả vận mệnh nằm trong một bước. Bước đi! Cái “tôi” của ngày nay, cái “ta” kiêu hùng, cả tổ tiên nằm trong môt bước.”…
…
Tôì rất vinh dự được Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh trao giải thưởng “Vì sự nghiệp văn hóa và giáo dục” năm 2017. Đây là một bất ngờ đối với tôi, vì vinh dự này quá lớn đối với việc làm quá nhỏ của tôi. Tôi lại là người ở xa, luôn luôn có mặc cảm vui buồn không được trực tiếp cùng chia, ấm lạnh không được trực tiếp cùng cảm với bạn bè anh em trong nước: thiếu sự sống trực tiếp ấy, hai chữ “sự nghiệp” không khỏi làm tôi áy náy. Tôi đành nghĩ: khi trao giải thưởng này cho người ở xa, các anh chị trong Hội Đồng muốn nói rằng văn hóa là văn hóa, văn hóa Việt Nam là văn hóa Việt Nam, không có văn hóa Việt kiều, cũng như không có quốc tịch Việt kiều.
Có lẽ câu nói vừa rồi của tôi là một cân nói đùa để che giấu cảm động. Nhưng quả thực, đó là một câu nói tâm tình, bởi vì có khi người ở xa cảm thấy mình là Việt Nam hơn lúc ở gần. Ở gần thì ai cũng giống ai. Ở xa thì thường xuyên thấy mình khác với xung quanh. Chính cái khác đó tạo ra cái mà ta gọi là bản sắc, bản sắc văn hóa, bản sắc dân tộc. Người ở xa không phải chỉ tha thiết với bản sắc như một khái niệm trừu tượng. Người ở xa thấy mình ăn, mặc, thương, ghét, nói, cười với cái bản sắc ấy cụ thể như cái bóng đi theo cái hình.
Tôi biết tôi động đến một khái niệm khó định nghĩa. Có người nói đó là một khái niệm không khoa học. Có người nói đó là một khái niệm ý thức hệ. Tuy vậy, có ai dám nói rằng không có bản sắc? Có ai không tự đặt ra cho mình câu hỏi đầu tiên: “tôi là ai?” Câu hỏi đặt ra là vì có “tôi” và có “người khác”. Không có “người khác” thì không có “tôi”. Rồi tôi lại tự hỏi: tôi là tôi vì tôi nhìn tôi như thế, hay tôi là tôi vì như thế người khác nhìn tôi? Nếu tôi nhìn tôi qua cái nhìn của người khác, phải chăng có người khác giữa tôi với tôi? Câu hỏi ấy chảy máu trong lòng người ở xa. Tôi xa tôi rồi chăng?
Câu hỏi ấy cũng cần chảy máu trong lòng một dân tộc khi dân tộc ấy vọng ngoại. Khi dân tộc ấy không còn thấy cần thiết phải đặt ra câu hỏi “tôi là ai?”. Khi dân tộc ấy không biết mình là khác. Khi dân tộc ấy nhập nhằng giữa tôi và người. Tôi khác anh: bản sắc bắt đầu tự định nghĩa với khẳng định quyết liệt ấy. Với chữ “khác”. Khác! Như một tiếng quát. Quát vào mặt kẻ nào muốn đồng hóa. Như một tiếng sấm. Sấm trong lịch sử. Nổ trong Bình Ngô Đại Cáo:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Nước non bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Cái gì là cốt lõi trong cái “khác” đó? Văn hiến. Văn hóa. Và cái gì là cốt lõi trong văn hóa? Phong tục. Anh đừng đem Khổng Mạnh ra để nói với tôi rằng tôi giống hệt anh, tôi là con đẻ của anh. Anh cũng đừng đem chữ viết ra để nói rằng tôi nhân chi sơ là sờ vú anh. Văn hóa của tôi không phải là văn hóa của anh bởi vì phong tục của tôi không phải là phong tục của anh. Và thế nào là phong tục? Là cách sống. Văn hóa là cách sống. Là cách ăn cách mặc. Là nước mắm. Là tiếng ru em. Là ca dao. Là lễ hội. Là chùa chiền. Là làng xóm. Là thói quen. Là ký ức chung. Là ý thức tập thể. Là tất cả những gì liên quan đến đời sống của một dân tộc, vật chất cũng như tinh thần. Nói “phong tục” là lấy cái khác nhất của Đại Việt so với chàng kia mà nói, chứ “phong tục” chính là “văn hiến” đã đại cáo ở trên. Và văn hiến ấy, Đại Việt ta đây đã có “từ lâu”, nghĩa là đã đi vào lịch sử, nghĩa là đã truyền lại đời này qua đời kia, truyền từ khi nhà ngươi tưởng đã nuốt sống ta trong ngót ngàn năm dằng dặc.
Trên thế giới, không có một nước nào so được với Đại Việt về cái rễ văn hóa sâu thẳm ấy. Châu Âu muốn so với ta? Châu Mỹ muốn so với ta? Có nước nào trong các bạn đẻ ra được, duy trì được, củng cố được, truyền thừa được, ấp ủ được một cái trứng văn hóa trong suốt ngàn năm đồng hóa trước khi có bờ cõi? Bản sắc là cái gì nếu không phải là cái trứng kỳ lạ ấy? Cho đến thế kỷ 18, các bạn ở châu Âu mới thấy xuất hiện cái tư tưởng rằng văn hóa là cái “tinh yếu” (“essence”) dính chặt vào một dân tộc, và từ đó mỗi dân tộc có một “thần khí” (“génie”) riêng biệt, khác với các dân tộc khác. Nhưng lúc đó các bạn đã có bờ cõi, đã thành lập xong cái mà lịch sử gọi là Etat-Nation, dân tộc nào có Nhà nước ấy. Trong bờ cõi đã phân chia ranh giới địa dư, các bạn mới xây dựng dân tộc văn hóa song song với dân tộc chính trị. “Dân tộc nào có bờ cõi ấy” và “dân tộc nào có văn hóa ấy”, hai tư tưởng đó củng cố lẫn nhau. Nghĩa là lúc đó các bạn chưa có một văn hóa dân tộc, các bạn phải lần hồi xây dựng văn hóa đó, khác với Đại Việt đã có cái trứng văn hóa từ lâu trước khi nở ra thành rồng Thăng Long. Cho nên chúng tôi không phải đợi cho đến thế kỷ 18, 19 mới quan niệm, như các tư tưởng gia ở Đức, văn hóa là cái “hồn” của mỗi dân tộc, là “Volksgeist”. Định nghĩa chính xác cái “hồn” ấy là gì, đúng là khó. Nhưng khó, không có nghĩa là phủ nhận cái “hồn”. Bởi vì không có hai dân tộc nào cùng có một văn hóa giống hệt nhau. Nếu có tình trạng đó thì cả hai chỉ có thể hợp thành một dân tộc. Vì vậy, vì mỗi văn hóa có một sắc thái đặc biệt, văn hóa quyết định bản sắc của mỗi dân tộc. “Tát cạn văn hóa ra khỏi một dân tộc – nghĩa là tát cạn ký ức và sắc thái độc đáo ra khỏi dân tộc đó – tức là giết chết dân tộc đó”. Tôi mượn câu nói ấy của Milan Kundera.
Với cái “hồn” ấy, tôi hiện hữu, tôi là tôi. Tôi nhận máu huyết từ trong đó. Tôi thở với hơi thở ấy. Nhưng cái đầu của tôi dạy rằng văn hóa là một khái niệm động, vừa như thế, vừa bìến chuyển với thời gian. Không văn hóa nào sống biệt lập, tách biệt với các văn hóa khác. Chung đụng, tiếp xúc với nhau, các nền văn hóa ảnh hưởng lên nhau, mỗi cái “tôi” của văn hóa này phải vừa canh chừng để đừng bị “cái khác” làm biến chất, lại vừa bị quyến rũ bởi “cái khác” khi nhận ra “cái khác” có những ưu điểm mà mình không có, cái “tôi” của mình có những nhược điểm mà mình cứ gối đầu lên ngủ, bất kể nhục vinh. Và như vậy, tôi vừa là con cháu của Nguyễn Trãi, vừa là con cháu của Phan Châu Trinh. Của Phan Châu Trinh khi Tây Hồ rơi vào thân phận Việt kiều, làm “người Việt ở nước ngoài”. Nhưng chính nhờ ở nước ngoài mà ông chạm mắt vào “cái khác” và ông thấy cái nô lệ nằm ngay trong văn hóa. Tôi mượn một câu của anh Vĩnh Sính, người bạn học giả mà tác phẩm từng được giải Phan Châu Trinh: “So với những trí thức cùng thời, kể cả Phan Bội Châu, tinh thần yêu nước của Phan Châu Trinh có điểm nổi bật là rất bén nhạy về điều hay cái lạ ở nước ngoài cũng như về những nhược điểm về văn hóa và xã hội mà con người Việt Nam cần khắc phục”. Từ đó mà bật ra phương châm “dân khí”, “dân trí”. Và dân chủ. Và dân chủ. Phan Châu Trinh là sĩ phu đầu tiên hô hào dân quyền. Huỳnh Thúc Kháng nói thế. Anh Vĩnh Sính tiếp theo: “Bởi vậy, khi đọc lại những lời Tây Hồ viết vào đầu thế kỷ trước, ta vẫn nghe sang sảng tựa hồ như tiên sinh đang đăng đàn diễn thuyết đâu đây”.
Tôi đang nghe sang sảng bên tai những Lư Thoa, những Mạnh Đức Tư Cưu, những Vạn Lý Tinh Pháp, những Khai Sáng Thế Kỷ, những Tuyên Ngôn Nhân Quyền. những tư tưởng mới làm choáng ngợp cái đầu rạng đông của Phan Tây Hồ. Chỉ giới hạn trong quan niệm về dân tộc mà tôi đang nói đây, tôi nghe sang sảng, như tiên sinh đã nghe, định nghĩa bất hủ của Renan, trong đó vừa có Nguyễn Trãi của tôi, vừa có Phan Châu Trinh của thời đại mới, vừa có quá khứ vừa có hiện tại, vừa có Herder của Lãng Mạn Đức, vừa có Rousseau của “Khế ước xã hội”:
“Dân tộc là một linh hồn, một nguyên tắc tâm linh. Hai yếu tố, thật ra chỉ là một, tạo nên linh hồn ấy, nguyên tắc ấy. Yếu tố thứ nhất nằm trong quá khứ, yếu tố thứ hai nằm trong hiện tại. Yếu tố thứ nhất là cùng có chung một gia tài kỷ niệm phong phú, yếu tố thứ hai là sự thỏa thuận hiện tại, ý muốn cùng sống, hoài bão cùng tiếp tục khai triển gia tài chung đã nhận. Con người không tự nhiên mà thành người. Một dân tộc, cũng như một cá nhân, là thành quả của một quá khứ lâu dài làm bằng nỗ lực, bằng hy sinh, bằng tận tụy. Thờ kính tổ tiên là chính đáng hơn tất cả; chính tổ tiên làm chúng ta thành ra chúng ta. Một quá khứ anh hùng, những vĩ nhân, vinh quang, đó là cái vốn xã hội trên đó ta tạo dựng một ý tưởng dân tộc. Cùng có những vinh quang chung trong quá khứ, một ý chí chung trong hiện tại, đã cùng nhau làm nên những công việc to lớn, vẫn còn muốn làm như thế nữa: đó là những điều kiện thiết yếu để là một dân tộc. Hy sinh đã làm càng cao, khổ sở đã chịu càng lớn, thương yêu càng nhiều. Ta thương cái nhà mà ta đã xây và đã truyền lại. “Ta bây giờ là hình ảnh của cha ông ngày trước; ta ngày mai sẽ là hình ảnh của cha ông ngày nay”, câu hát đó của dân Sparte ngày xưa đơn giản như thế nhưng tóm tắt được thế nào là tổ quốc”.
Và đây là hiện tại được nhấn mạnh. Hiện tại mà Phan Châu Trinh hoài bão qua hai chữ “dân quyền”:
” Như vậy, một dân tộc có một quá khứ, nhưng tóm gọn trong hiện tại bằng một sự việc cụ thể: thỏa thuận, ý muốn tiếp tục cùng sống chung được biểu lộ rõ ràng. Dân tộc là một cuộc bỏ phiếu hồ hởi hằng ngày”.
“Một cuộc bỏ phiếu hồ hỡi hằng ngày”. “Un plébiscite de chaque jour”: lịch sử nước Pháp ghi khắc câu nói ấy. Lịch sử của các nước tiến bộ văn minh cũng ghi khắc câu nói ấy. Bởi vì câu nói ấy chứa đựng tất cả tinh túy của một văn hóa, một văn minh không riêng của một dân tộc nào mà chung cho cả mọi dân tộc. Vì câu nói ấy, vì tinh túy trong ý nghĩa của nó, mà Phan Châu Trinh khác Phan Bội Châu. Đất nước độc lập, không phải chỉ đuổi lũ cướp nước là xong. Phải đuổi cái nô lệ ra khỏi cái đầu. Bạo lực có thể đạp đổ bạo lực. Nhưng bạo lực nào cũng có khuynh hướng thay thế bạo lực cũ để thống trị bằng cách nô lệ hóa cái đầu. Phan Châu Trinh đã đi trước thời đại bằng lời lẽ thống thiết kêu gọi phải thắp sáng cái đầu của người dân. Bởi vì thời độc trị của vua chúa đã qua rồi. Cái nguyên tắc mà Renan gọi là “tâm linh” (“spirituel”) không có gì là siêu hình cả, trái lại rất cụ thể. Đó là người dân. Mỗi người dân. Mọi người dân. Mỗi người dân nắm vận mệnh của mình và của dân tộc mình. Bằng thỏa thuận. Như thỏa thuận khi ký một hợp đồng. Dân tộc là linh thiêng, bởi vì trong lòng mỗi người dân đều có cái “hồn” của tổ tiên, nhưng dân tộc chỉ trường tồn trong hiện tại, trong tương lai, khi chính người dân, chứ không phải một ai khác trên cao xanh, cùng nhau thỏa thuận về vận mệnh của đất nước. Sự thỏa thuận ấy, tất nhiên biểu lộ bằng lá phiếu, và lá phiếu chỉ là lá phiếu khi trung thực. Không có trung thực thì không có thỏa thuận. Nhưng chữ “plébiscite” của Renan không có nghĩa tầm thường của một cuộc trưng cầu dân ý. Bởi vì trưng cầu dân ý cụ thể là con số: 51%, 65%, 70%, vân vân. “Plébiscite”, trong cái nghĩa của Renan, không phải đo bằng con số. Đo trong lòng người, người dân nào cũng biết đo và đo rất chính xác, trung thực. Siêu hình chăng? Cam đoan không. Cứ hỏi mỗi người Việt Nam có biết đo không, câu trả lời sẽ rất giản dị. Đừng dối nhau làm gì, có thời chúng ta đã từng nghe: cái cột đèn cũng muốn đi. Và bây giờ lại nghe nói: ai có chút tiền đều một chân trong chân ngoài. Một dân tộc sống với cái đầu hoài nghi, cái chân bỏ phiếu, là một dân tộc đang tự thắp nhang cho mình, làm mồi cho cú vọ. Nếu ai có chút tiền đều muốn đưa con ra ngoài để học rồi để ở lại, thì tim đâu để máu chảy về? Thì đâu còn định nghĩa được tôi là ai? Thì lấy người khác làm mình. Thì đâu là “dân khí”? Cái “hồn” nằm ở đâu?
Ngoại xâm trước mắt đâu phải chỉ lấn đất lấn biển. Nó lấn cái đầu. Cái đầu ấy, ngoại xâm muốn ta giống nó. Nó rất sợ ta khác nó. Nó muốn ta giống nó bằng văn hóa, bằng ý thức hệ. Nó sợ ta khác nó với Phan Châu Trinh. Bởi vì chỉ cần ta định nghĩa ta là Phan Châu Trinh, ta có cái đầu văn hóa mở ra với những chân trời khác, những bình minh khác cùng sáng lên hai chữ “dân quyền”, chỉ cần thế thôi, chỉ cần cái đầu văn hóa ấy thôi, vận mệnh của đất nước Việt Nam sẽ đổi khác về mọi mặt, bắt đầu là mặt chiến lược. Vì sao? Vì định nghĩa ai là bạn ai là thù bắt đầu từ đâu nếu không phải là từ anh khác tôi, tôi khác anh của Nguyễn Trãi?
Chỉ cần thế thôi, một bước ấy thôi, dân tộc chờ đợi từ thời Phan Châu Trinh. Chỉ cần một câu trả lời với Renan: Vâng, đúng thế, dân tộc là sự giao thoa của hai thỏa thuận song song: thỏa thuận giữa người dân với nhau cùng sống cùng chết trên cùng mảnh đất của tổ tiên; thỏa thuận giữa người dân với chính quyền để cùng nhau đảm đương việc nước. Một bước. Cả vận mệnh nằm trong một bước. Bước đi! Cái “tôi” của ngày nay, cái “ta” kiêu hùng, cả tổ tiên nằm trong môt bước.
( …)
Trong tâm tình trên đây của tôi về dân tộc, tôi xin được kết thúc, rất ngắn, với chút tâm tình về đạo Phật của tôi, vì hai tâm tình chỉ là một, hòa quyện vào nhau trong toàn bộ chữ viết của tôi. Có lần trả lời cho báo Lao Động, tôi nói: tất cả những gì tôi viết đều là thư tình, tình thư tôi gửi về quê hương, dù khi nói về đời, dù khi nói về đạo. Có một con chim bị đâm gai, nằm chảy máu dưới một bông hoa trắng, và hoa trắng đã thành hoa hồng. Đó là hoa hồng tôi hiến tặng cho đất nước của tôi từ xa.
Dân tộc tôi, nếu muốn định nghĩa về bản sắc của mình, không thể không nói đến đạo Phật. Vì đạo Phật thiết yếu như vậy cho sự sống còn văn hóa của dân tộc tôi, nếu chùa chiền biến chất trong một hiện tại đầy hoài nghi về văn hóa và giáo dục này, nếu đạo Phật cũng héo hon theo, thì cái hồn của quá khứ cũng tủi, mà hiện tại cũng bơ vơ bản sắc. Như một con én không để mất mùa xuân, tôi không muốn thấy đạo Phật của dân tộc tôi bị lão hóa với thời đại kim tiền, tôi muốn đạo Phật của tôi vẫn là nhựa sống của tuổi trẻ, của các bậc cha mẹ, của mọi gia đình. Nhựa ấy muôn đời vẫn thế, vẫn còn đấy, nhưng để làm cho nó chảy trong cành tươi, con chim nhỏ bị gai đâm chỉ còn biết chảy máu theo mà thôi, trong chữ viết.
Trung thành với đạo Phật của tôi, trung thành với dân tộc của tôi, tất cả những gì tôi viết, dù là nước mắm, dù là tương chao, dù là văn hóa, dù là giáo dục, đều nhắm đến một lý tưởng, lý tưởng của Phan Châu Trinh: Tiến Bộ. Đừng tưởng đạo Phật không cần tiến bộ. Không tiến bộ thì xa lìa đời sống. Còn dân tộc, khỏi nói, không tiến bộ thì thế giới đạp lên xác pháo. Nhưng đạo Phật biết một cái rất quý nói trong kinh Pháp Hoa: một viên ngọc giấu trong áo cũ. Áo cũ phải thay, viên ngọc vẫn giữ. Dân tộc của tôi, nghẹn ngào mà nói, có ngọc quý mà không giữ, lấy cuội của người làm ngọc của mình, gắn lên vương miện.
Thôi, tôi xin kết luận thôi. Tôi định nghĩa thế nào đây về tôi? Tôi là ai? Dân tộc tôi là ai? Là gì? Là thế nào? Nếu không định nghĩa được bằng khẳng định, thôi thì ta tạm định nghĩa bằng phủ định: Tôi không phải như thế này, tôi đáng lẽ phải là thế khác. Dân tộc tôi xứng đáng hơn thế này. Dân tộc tôi chưa xứng đáng với tổ tiên.
Vô cùng cám ơn Quý Vị.
Cao Huy Thuần
http://www.viet-studies.com/CaoHuyThuan_DienTuGiaiVanHoa.htm
Tổng quan về Khai sáng và phong trào Khai sáng
Nguyễn Trọng Khánh
Khai sáng là gì? Tại sao khai sáng lại liên quan tới vấn đề phát triển Hợp tác xã (HTX)? Sự soi chiếu này có kệch cỡm hay kỳ cục không? Để trả lời những câu hỏi trên, chúng ta cần điểm lại những khái niệm cơ bản về khái sáng và quá trình phát triển HTX tại Việt Nam. Đầu tiên hãy cùng tìm hiểu về khái niệm khai sáng và quá trình phát triển của phong trào khai sáng.
Theo I. Kant người mà trong một chừng mực nào đó có thể coi là “cha đẻ“ của khái niệm khai sáng thì khai sáng là: sự thoát ly của con người ra khỏi tình trạng vị thành niên do chính con người gây ra [1]. Hoặc, khai sáng là ra khỏi trạng thái vị thành niên hay trạng thái chưa trưởng thành do tự mình chuốc lấy [2]. Tình trạng vị thành niên hay chưa trưởng thành ở đây không nói về khía cạnh sinh học hay độ tuổi, mà ở đây là về tư duy, một người nhiều tuổi vẫn có thể ở trong trạng thái chưa trưởng thành do tự mình chuốc lấy như thường. Tình trạng vị thành niên này theo I.Kant là do tự mình chuốc lấy chứ không phải do khách quan, không phải là do thiếu trí tuệ, đầu óc, mà là do thiếu sự dũng cảm, quyết đoán trong việc sử dụng trí tuệ, đầu óc của mình một các độc lập mà không cần tới sự hướng dẫn của người khác. Do vậy trưởng thành là vượt qua sự lười biếng, vượt qua sự thiếu dũng cảm để sử dụng trí tuệ của mình một các độc lập. Hay đó chính là quá trình phản biện, sử dụng tư duy phản biện đối với chính mình và các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Vậy làm thế nào để chứng minh rằng tôi đang sử dụng trí tuệ của mình, hay tôi đang phản biện, cũng theo I.Kant chỉ có cách là anh phải công khai hoá nó ra, có nghĩa là anh phải truyền tải được ý kiến của mình tới những người khác, tới cộng đồng với tư cách là một con người độc lập, một học giả để đưa ra phê phán, phản biện của mình trên cơ sở lập luận rõ ràng, cụ thể, đàng hoàng và công khai. Khi tất cả mọi người công khai hoá ý kiến của mình, phản biện chính mình, phản biện các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống thì khai sáng sẽ tự khắc diễn ra, và con người qua đó sẽ trưởng thành lên. Để có thể tạo ra được môi trường công khai hoá như vậy, cũng theo I.Kant cần phải có tự do ngôn luận, tự do báo chí để người dân có một môi trường tốt hơn để trưởng thành. Có thể nói, khai sáng/trưởng thành là quá trình mà con người tự phản biện mình, phản biện các vấn đề trong cuộc sống để tiến bộ hơn.
Có thể nói, phong trào khai sáng ở Châu Âu (diễn ra chính vào thế kỷ 17 và 18) đã tạo nên những biến chuyển lịch sử hình thành sự phát triển như hiện tại của các nước phương Tây, phong trào này có những đặc điểm như: “Thứ nhất là viện dẫn hay nương tựa vào lý trí chính mình, như Kant nói lý trí là cơ quan thẩm quyền phổ quát để xác định đúng sai, không dựa vào quyền uy kinh thánh hay bậc giáo phụ, vua chúa mà chính đầu óc con người là nguồn ánh sáng tự nhiên, nó là cơ quan tối hậu có thẩm quyền để xác định đúng sai.
Thứ hai là muốn vậy thì con người không chỉ hiểu chính mình mà còn hiểu xung quanh, bởi ánh sáng là ánh sáng phổ quát. Ánh sáng là ngọn đèn để đọc sách do chính mình viết ra. Thậm chí, toàn bộ giới tự nhiên cũng là một cuốn sách, là văn bản, nếu anh là nhà tín ngưỡng thì nó là do thượng đế sáng tạo nên, còn nếu anh không tín ngưỡng thì giới tự nhiên là cuốn sách vĩ đại, là văn bản có nhiều bí mật thì cần phải đọc, vì thế mới ra đời khoa học tự nhiên. Từ đó, con người mới nhận ra rằng tất cả đều là văn bản, cần phải giải mã, cần phải đọc cho nên có sự khao khát hiểu biết, sự dũng cảm vô lượng trong sự tìm tòi, không có gì không mang ra tìm tòi, khám phá. Khi Galileo dùng kính viễn học nhìn lên bầu trời cũng là lúc ông đang đọc văn bản, xem thử văn bản của vũ trụ viết cái gì…
Thứ ba là vấn đề tôn giáo tín ngưỡng. Chúng ta đừng quên rằng châu Âu thời bấy giờ vẫn còn rất nặng nề, phức tạp về tôn giáo. Tôn giáo là nơi duy trì văn minh, văn hóa, xã hội đồng thời cũng gây ra nhiều ách tắc trong tư tưởng. Thế là bắt đầu có phong trào cải cách tôn giáo ở châu Âu, một cuộc xáo trộn ghê gớm. Vấn đề tôn giáo là vũ khí tinh thần của thời đại, và thái độ của khai sáng là đạt tới độ khoan dung tôn giáo. Bao lâu anh vẫn giáo điều, vẫn tin vào một chuyện không cho người khác tin cái khác thì không thể gọi là khai minh. Đặc điểm của khai sáng bên cạnh lý trí và khoa học tự nhiên là khoan dung tôn giáo.
Thứ tư, quan hệ giữa người và người bấy lâu nay là căn cứ vào ý chí của bậc quân vương, luật pháp do hoàng đế ban ra. Bây giờ thì không! Luật pháp là phải dựa vào luật tự nhiên, những gì luật tự nhiên có thì áp dụng vào cuộc sống con người, gọi là “pháp quyền tự nhiên”. Nghĩa là luật pháp có chỗ dựa khách quan mà không còn dựa vào ý chí tùy tiện của ông vua. Cho nên, trong luân lý và trong pháp lý dựa vào pháp quyền tự nhiên, đó cũng là một biến đổi ghê gớm. Tất cả những quan niệm hôm nay về nhà nước pháp quyền là dựa vào thành tựu này của thế kỷ 17 ở châu Âu, thay cho luật pháp tùy tiện của vua chúa bằng luật tự nhiên.
Thứ năm, về mặt xã hội, đời sống từng cá thể thì chủ trương thực sự khai phóng để con người có quyền tự do hành động theo ý của mình. Lần đầu tiên “tự do hành động” trở thành khái niệm của thời đại. Ngày nay với chúng ta thì khái niệm này nó thường quá còn ngày xưa thì vô cùng mới mẻ vì trước đó hành động cái gì cũng phải trong khuôn khổ của thần quyền, pháp quyền bỗng nhiên được giải phóng hoàn toàn.
Thứ sáu, về giáo dục thì sao? Hoàn toàn là một nền giáo dục mới mẻ, một quan niệm sư phạm hoàn toàn mới đó là quan niệm tự do tư tưởng, từ đó mới có thể xây dựng được thế hệ học giả hoàn toàn mới mà như Kant nói là “ngòi bút là thần linh của pháp quyền” và tính công khai. Muốn vậy phải có tự do báo chí và ngôn luận! Không có tự do báo chí và tự do ngôn luận thì đừng có nói nền giáo dục mới, đừng có nói tới tính công khai. Đây cũng là thời kỳ đầu tiên mà báo chí tự do ra đời. Đi kèm với tự do báo chí và tự do ngôn luận sẽ là bảo đảm các dân quyền và nhân quyền thể hiện qua cách mạng Pháp và nhất là cách mạng Mỹ. Phải thừa nhận nhân quyền và dân quyền là phổ quát chứ không phải là dân quyền và nhân quyền hạn hẹp trong chế độ mà nó có giá trị tự thân phải được thừa nhận khắp nơi vì tất cả đều là con người, chứ không phân biệt người Pháp, người Mỹ, người Đức… Mà đã là con người nói chung thì đều được sống theo luật tự nhiên và hưởng những nhân quyền, dân quyền phổ quát. Tư tương này hoàn toàn mới mẻ và là cơ sở hình thành nhà nước hiện đại. Quan niệm về nhà nước hiện đại là sản phẩm của thời đại khai minh này, nó thay đổi hoàn toàn tính và chất chức năng của nhà nước. Thay vì tính chất là “thiên định” (trời quy định) thì nay là do dân bầu lên; thay vì chức năng là cai trị thì chức năng là phục vụ cho cộng đồng, là lợi ích chung, phúc lợi xã hội… Nếu không có phong trào khai sáng, có lẽ, chúng ta còn sống trong chế độ thế quyền rất kinh hoàng.
Tính chất chung của thời kỳ khai sáng này là lạc quan về tương lai, lạc quan về lịch sử, lạc quan về năng lực của con người… tóm lại là lạc quan về sự tiến bộ vô tận của nhân loại. Có thể còn hạn chế này, hạn chế kia nhưng đó chỉ là nhất thời thôi rồi ta sẽ vượt qua và đi lên. Bao trùm 2 thế kỷ này (17, 18) là một niềm lạc quan, hào hứng hướng về tương lai của loài người. Họ tin vào những vấn đề của con người dù khó khăn đến mấy cũng sẽ dần dần được giải quyết. Những văn bản của tự nhiên khó đến mấy, bí hiểm đến mấy dần dần sẽ được giải mã qua con đường khoa học.“ [3]
Xin mượn những tổng kết của nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn về những đặc điểm của phong trào Khai sáng để tạm kết cho phần này. Để trao đổi về Khai sáng và phong trào Khai sáng thì còn quá nhiều điều để bàn, người viết chỉ xin giới thiệu sơ qua những điểm quan trọng để có cái nhìn rõ hơn về chủ đề mà chúng ta đang nói tới.
http://www.viet-studies.net/kinhte/NTrongKhanh_HTXKhaiSang.html
TỰ DO
Thơ Việt Bách
Anh có một người bạn
Có tên là Tự Do
Hay mỉm cười, ca hát
Biết sống cùng ước mơ
Tự Do ở bên anh
Đi dạo trên đồng cỏ
Ngắm hoàng hôn một chiều
Để dịu đi nỗi nhớ
Tự Do luôn kiên nhẫn
Đợi chờ anh sớm chiều
Cầm tay anh chỉ hướng
Tránh ngôi nhà Tình Yêu
Mỗi khi anh cô đơn
Tự Do ngồi lặng lẽ
Xoa dịu hết nỗi buồn
Để cho anh vui vẻ
Tự Do luôn chung thủy
Đi cùng anh khắp nơi
Qua mùa xuân, mùa hạ
Nguyện theo anh suốt đời
Những vết thương đau đớn
Tự Do vẫn chữa lành
Bao lo toan, sầu muộn
Tự Do động viên anh
Tự Do là bông hoa
Cho đời anh hương sắc
Bên anh như hình bóng
Trong những đêm đông buồn
Tự Do sẽ theo anh
Đi suốt cuộc hành trình
Khi vui buồn, sướng khổ
Vẫn chia sẻ cùng anh
Rồi một ngày định mệnh
Anh phản bội Tự Do
Anh bỏ đi không báo
Dù Tự Do vẫn chờ
Anh theo người con gái
Là cai ngục Tình Yêu
Sống trong nhà song sắt
Tự Do chẳng đi theo.
Luxembourg, ngày 04 tháng 06 năm 2017
Tự do
Như cánh chim hải âu không mỏi
Tự do sải cánh khắp bầu trời
Ngắm đại dương dập dìu đàn cá lượn
Soi bóng mình trên đồng cỏ xanh tươi.
Như mặt hồ mênh mông phẳng lặng
Đón rạng đông, chào ngày mới hân hoan
Chờ con thuyền khua mái chèo thật khẽ
Tự do là hơi thở của không gian.
Như nụ cười trên môi đứa trẻ
Tự do có khuôn mặt đẹp như hoa
Nằm trong nôi nghe tiếng ru ấm áp
Tự do nghe tiếng gọi quê nhà.
Như rừng cây rì rào trước gió
Tiếng bước chân của con thú tìm mồi
Tiếng đập cánh của đại bàng dũng mãnh
Tự do vẫn vang vọng khắp nơi.
Như dòng thác bọt tung trắng xóa
Nghe âm thanh tiếng đàn đại phong cầm
Đá rêu phong chẳng mòn vì chờ đợi
Tự do, tiếng gọi mãi nghìn năm.
Như hàng cây rợp bóng giữa trưa hè
Tiếng thì thầm của gốc lúa, bờ tre
Tiếng quê hương trên bờ đê gió mát
Tự do ơi, lời nhắc để ta về.
Như bước chân tiếng leng keng xiềng xích
Tiếng roi vọt hằn khắp lưng trần
Kiếp nô lệ suốt một đời đau khổ
Vì tự do hãy đứng dậy thoát thân.
Như tiếng chiêng rộn ràng mùa lễ hội
Tiếng chim hạc vỗ cánh khắp trống đồng
Tiếng hơi thở suốt nghìn năm mất nước
Tự do là ánh sáng giữa đêm đông.
Như con sông miệt mài chảy mãi
Sóng khát khao tìm đến đại dương
Sông chảy về bao la rộng lớn
Tự do tìm đến mọi ngả đường.
Như ốc đảo giữa mênh mông sa mạc
Bên hàng cây tỏa bóng giữa khô cằn
Khách bộ hành reo hò bên dòng nước
Tự do, nguồn sống giữa xa xăm.
Như ngôi sao sáng nhất trong đêm
Khiến cả bầu trời lấp lánh thêm
Bóng đêm run rẩy vì ánh sáng
Yêu tự do, ta không thể thấp hèn.
Như những ngọn đồi gió vi vu
Lắng nghe khúc hát lúc giao mùa
Hàng cây nghiêng nghiêng đang ngóng đợi
Tự do ơi, người đã về chưa?
Như mây trắng bay giữa bầu trời
Tự do đi dạo khắp mọi nơi
Từ miền quê đến thảo nguyên bát ngát
Qua núi đồi đến tận biển khơi.
Như ngọn hải đăng giữa mù khơi
Ánh sáng chỉ đường đến muôn nơi
Có con tàu đi trong đêm tối
Đón đợi tự do đã lâu rồi.
Như niềm vui trong ngày gặp lại
Khuôn mặt ai cũng hạnh phúc, hân hoan
Mắt nhòa lệ và cánh tay dang rộng
Tự do chờ đợi với thời gian.
Như mảnh vườn hoa thơm trái ngọt
Tiếng chim ca ríu rít gọi bình minh
Tự do tỉnh giấc trong nắng sớm
Cười dịu dàng giữa nét môi xinh.
Như trang vở, viết dòng đầu tiên
Tự do ơi, hai tiếng thiêng liêng
Hạnh phúc, ấm no cần tranh đấu
Ta hãy một lòng quyết đứng lên.
Như bài thơ tình anh tặng em
Tự do hòa nhịp đập trái tim
Thần Tình yêu đến nhà Hạnh phúc
Tự Do nơi ấy ta đi tìm.
Tự do mang ý nghĩa cho đời
Mang đến niềm vui với bao người
Tiếng vọng trái tim nơi xa xứ
Tiếng gọi tự do đến muôn đời.
Giữa bộn bề lo toan cuộc sống
Ta ngợi ca hai tiếng tự do
Quê hương Việt Nam bao yêu dấu
Lỡ hẹn tự do đã bao mùa.
Paris, tháng 08 năm 2017
Viết gì về truyện ngắn “Bắt đầu và Kết thúc”?
QUYỀN TỰ DO CỦA NHÀ VĂN ĐẾN ĐÂU?
Nhà văn có quyền tự do sáng tạo, không có quyền tự do mượn văn chương tuyên truyền cho quân bán nước và cướp nước!https://chumonglong.wordpress.com/…/hau-bat-dau-va-ket-th…/…
https://xuandienhannom.blogspot.com/2018/01/chu-mong-long-quyen-tu-do-cua-nha-van.html
Gốc vững bền của một quốc gia chỉ có thể là Dân Chủ
Lưu Trọng Văn
Sáng nay tí tởn làm vườn, ngồi lau mồ hôi… mèm mẹp tự dưng gã nhớ đến cụ Nguyễn Trãi. Cụ có câu thơ “Lật thuyền mới biết dân là nước”. Gã nhớ lần về Côn Sơn thắp nhang tưởng nhớ cụ, rồi lọt vào một vườn vải, một lão nông kể lại gã nghe vụ án Lệ Chi Viên.
Thương quá Ức Trai ơi!
Gã giật mình khi lão nông Côn Sơn kia hỏi gã: Chú đi nhiều nơi, đọc nhiều sách, quen nhiều người, trả lời giùm lão câu hỏi này. Lê Lợi, Lê Sát, Nguyễn Trãi đều là người yêu nước nằm gai nếm mật với nhau chống giặc Minh, vì sao sau này lại hại nhau, giết nhau?
Một câu hỏi của… nước mắt.
Một câu hỏi đến giờ vẫn hôi hổi thế sự.
Chao ôi hơn 600 năm trước cái điều Nguyễn Trãi nói: “Lật thuyền mới biết Dân là nước” đâu phải ai cũng thấu, cũng hiểu đâu. Ừ nhỉ, vì sao cùng là người yêu nước khi thái bình rồi lại có thể giết nhau?
Gã đã trả nhời lão nông Côn Sơn kia thế này:
Lê Lợi, Lê Sát cũng yêu nước như Nguyễn Trãi nhưng khác Nguyễn Trãi ở chỗ Nguyễn Trãi trước hết và trên hết còn là người yêu Dân, biết Dân là nước chở thuyền, lật thuyền, Dân cũng chính là đất nước.
Lão nông rít một cuộc thuốc lào, từ từ nhả cuộn khói lên cành vải rồi chẹp miệng.
Lão cũng nghĩ vậy. Xưa nay người yêu nước chưa chắc đã yêu Dân, thương Dân, biết Dân là gốc. Nhưng người yêu Dân, thương Dân thì chắc chắn cũng sẽ yêu nước.
Gã thêm một lần nữa thót giật mình khi nhớ lại mới tối qua thôi một cụ cộng sản gộc nói với gã về Độc lập và Dân chủ. Thời trẻ cụ hăng hái cho rằng có Độc lập sẽ có tất cả, nhưng rồi thực tế cụ đã thấy có Độc lập rồi nhưng Tự do, Hạnh phúc, Dân chủ vẫn xa vời. Để rồi cuối đời cụ mới nhận ra có Dân chủ mới có tất cả.
Rõ rồi. Vì sao bao người yêu nước khi giải phóng được đất nước khỏi ngoại xâm lên cầm quyền đã đàn áp ý dân, đã bóp nghẹt dân chủ.
Sự khác biệt giữa Lê Lợi, Lê Sát với Nguyễn Trãi là đây. Chỉ vì Nguyễn Trãi vẫn đau đáu chuyện khát khao muốn có áo dài vạn dặm để đắp cho muôn Dân, xung khắc với những kẻ chăm chăm giữ lợi ích cầm quyền coi mình là cha Dân dẫn đến cái chết thảm khốc của con người vĩ đại nhất đất nước gã.
Chỉ có ai biết yêu Dân, thương Dân như Nguyến Trãi mới hiểu rằng cái gốc trị nước, cái gốc vững bền cho một quốc gia chính là và chỉ có thể là: Dân chủ.
L.T.V.
Nguồn: FB Lưu Trọng Văn
…Những “Thánh Gióng” thời hiện đại…
1.Yêu nước, đấu tranh chống ngoại xâm để giữ nước, bảo vệ đất nước như là một bản năng Ý sinh tồn của giống nòi Việt luôn phải sống chung với kẻ thù” lân bang“, “hữu nghị”, “môi hở, răng lạnh”…, luôn có ý đồ xâm lược, cướp nước ta cả mấy ngàn năm nay… Triều đại nào “Vì Dân” thì “thịnh quốc”, triều đại ấy tồn tại lâu dài; Triều đại nào chỉ biết lo cho quyền lợi ích kỷ của mình, khi lòng dân không yên, mất lòng dân, chạy cầu cứu kẻ thù xâm lược thì kẻ đó là kẻ phản dân, bán nước đều bị nhân dân, lịch sử phỉ nhổ và điều bị diệt vong. Dù có lúc phải chịu khổ, chịu nhục nhưng với tinh thần bất khuất chống ngoại xâm, nhân dân, dân tộc VN ta mới tồn tại đến ngày nay….Tự hào dân tộc là tự hào về lịch sử dân tộc Việt Nam, về lòng yêu nước, tinh thần độc lập, bất khuất của Con Người Việt Nam, không sợ bất cứ kẻ thù nào, một lòng giữ nước, bảo vệ đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân, độc lập, tự do của Tổ quốc ! Nhân dân, dân tộc Việt Nam đã khổ, đã chịu khổ không biết bao nhiêu mà kể chỉ mong cuộc sống bình yên, nhưng sao mà khó! Bình yên để sống Cuộc Sống Làm Người, có Quyền Làm Người, làm chủ vận mệnh, cuộc sống của mình, của đất nước trong cuộc sống xã hội Bình đẳng, Hạnh phúc, Yêu thương…
2.-“ Kẻ sỹ” trong xã hội mới có hay không?-” Thất phu” thời nào cũng có nhưng có còn “hữu trách” hay cúi đầu làm “mãi quốc cầu vinh”? Nhìn lại lịch sử cận đại của dân tộc dù có thời gian “kẻ sỹ” như là đối tượng bị loại trừ ra khỏi xã hội nhưng “kẻ sỹ” vẫn là “kẻ sỹ”, dù cũng không ít kẻ đã tự loại mình ra, không còn “sỹ”.(!). Xã hội không có “kẻ sỹ”, không có trí thức thì…xã hội ấy có văn minh, dân tộc có hưng thịnh, có vững mạnh, có phát triển!? Lòng yêu nước trong cộng đồng dân tộc Việt “giữ gìn, phát huy” từ xưa nhờ những kẻ sỹ ấy. Giáo dục lòng yêu quê huơng, đất nước, yêu lịch sử nước nhà, các anh hung dân tộc, yêu nhà, yêu người, sống có đạo lý làm người…cũng nhờ có “trí, đức, dũng, uy” của “nhưng kẻ sỹ” ấy. Yêu nước là yêu dân! Kẻ sỹ phục vụ cho một bộ máy cai trị, dù bất cứ triều đại Việt Quốc nào cũng đều vì dân, vì nước. Lấy cái thước “Yêu Sơn Hà Xã tắc”, yêu nhân dân, yêu nước, yêu người, vì Giang Sơn Tồ quốc Hùng Vương bền vững…để làm thước đo!. Phục vụ cho bộ máy cai trị để “hưng quốc, an dân” nhưng khi kẻ cai trị không vì dân, vì nước; bao che, bảo vệ cho kẻ tội đồ hại nước, hại dân…kẻ sỹ xưa chọn cho mình con đường về …”ở ẩn”, nhưng mà có “ẩn” đâu! “Kẻ sỹ” về với dân để lấy cái “trí”, cái “sỹ”, “thân dân”, sống với Ý dân, cùng Muôn dân- Làng Nước -Giữ Nước, Giữ Nhà , Sống Đạo Làm Người của Nòi Giống Việt…với tinh thần bất khuất. Tuổi trẻ Việt Nam bao đời nay nhờ ai mà tự biết mình cần làm gì và sống như thế nào nếu không có dòng Lịch sử Việt, không có Tổ Quốc Nhân Dân, nếu không có những Ông Gióng …!
3.…Tuổi trẻ Việt Nam ngày nay với Nhân duyên Thời đại- Thế giới đã tiếp cận với những phương tiện truyền thông thời đại-internet-Thế giới phẳng để “chọn lọc” tinh hoa loài người, nối mình hòa nhập với thế giới, sống biết thực tế cuộc sống đất nước, ai vì dân, ai vì nước, ai phản bội đất nước, phản bội nhân dân…để .sống đúng đạo nghĩa làm người, góp phần xây dựng đất nước, bảo vệ đất nước, gìn giữ đất nước, chống kẻ thù xâm lược- trong, ngoài- bất kể là ai để sống với Đất nước Nhân loại, …Tuổi trẻ ấy ắt phải là những tinh hoa của dân tộc, người chủ của xã hội tương lại !…-Mầm sống đã vươn lên sẽ sống sáng, sẽ nhanh lớn….
Trong một xã hội con người được” bảo vệ, chăm sóc” quá kỹ càng, dù lớn tuổi, già đầu, đã làm Cha, làm Mẹ, làm Ông, sắp về với tổ tông nòi giống…vậy mà vẫn như là đứa trẻ còn “bú mớm”, “còn bồng trên tay”. Một xã hội mà nhân dân như đứa trẻ nít chỉ biết đòi bú, đòi ăn, đòi chơi, đòi ẳm, …Một xã hội tất cả chỉ chờ vào kẻ ”bảo mẫu”, “vú em”, xã hội đó làm sao mà lớn, đến bao giờ mới trưởng thành!? Ngày xưa, cậu bé Làng Gióng- Phù Đổng…vì sao ra đời chỉ biết im lặng?-Im lặng mà Nghe, mà Sống, mà Biết….!Khi đất nước bị hoạ Ngoại xâm, “nước mất, nhà tan”, muôn dân ta thán, Cậu Bé Làng Gióng-tuổi trẻ Lên Ba-Tam Bảo Ý- đã Tự Mình Vươn Vai Đứng Dậy, Thống nhất Ý Thiên Trụ-để làm người đi Cứu Nước! -Một người vươn lên, đứng dậy, muôn người đứng dậy, vươn lên ngang tầm cao thời đại để Sống, để Biết, Giữ Nhà Giữ Nước, đánh giặc Ngoại xâm! Với “Ngưa sắt, Mũ sắt, Roi sắt”- sản phẩm văn minh, tiến bộ nhất của thời đại ấy -Cậu bé Làng Gióng đã Triệu muôn Ý muôn Dân, nhất thống muôn người, muôn nhà, dụng tất cả nhân duyên cuộc sống thời đại bằng tinh thần yêu nước, cứu nước, cứu nhà….. Ngày nay, những “cậu bé con”đang ngồi trên ghế nhà trường cũng đã tự biết sử dụng vũ khí của thời đại để xóa tan đi “sự im lặng khủng khiếp”, kết nối mình với thế giới nhân loại, nói lên tiếng nói của con người để thể hiện Ta Là Con Người- Con Người Việt Nam trong thời đại mới bằng cuộc sống nhân duyên Đất Nước và Thời Đại tìm lại cội nguồn lịch sử dựng nước và giữ nước của Cha Ông, cội nguồn văn hoá dân tộc, đất nước trong cuộc sống nhân duyên thời đại để Sống, để Biết Cuộc Sống Non Nước Nhà! Sống, Nhân Dân ta phải Sống, Đất Nước Ta phải thực Sống….Xưa- Một cậu bé Làng Gióng” nay không phải chỉ có Một. Những cậu bé Làng Gióng thời đại mới rồi cũng sẽ “vươn vai” đứng dậy, hợp sức thành Phù Đổng với Quyền Làm Người trong Thời đại Dân chủ, Bình đẳng,Tự do, Con đường Ánh Sáng Nhân loại, hợp lực cùng thế giới, Người Việt Trong –Ngoài, giữ nước, giữ nhà … chống mọi kẻ thù xâm lược, mọi kẻ vong bản, bán nước, hại dân ….
4.Con Người sống dưới Ánh sáng Mặt Trời-Ánh Sáng luôn xua tan Bóng tối! Những con Cú Vọ mới sợ Ánh Sáng Mặt Trời. Dưới Ánh Sáng Mặt Trời- tất cả đều rõ ràng! Con người ai cũng có Mắt, có Tai, Mũi, Miệng, Thân, Ý ! Ý Con Người- Cuộc Sống, không như xưa bị bức màn sắt ngăn che, ngày nay, kẻ u mê mới lấy tay che Ánh Sáng Mặt Trời-nó chỉ tự che chính nó thôi ! Lũ bầy đàn chỉ sống theo bản năng, bầy đàn thôi! Con Người sống với muôn ý, sống với muôn dân, dân tộc, đất nước mới là Con Người Nguyên Ý – “Đồng Bào-Đồng Bọc”, Một Dạ, Một Lòng, Đồng Tâm-Nhất Ý… mới là Tất Cả , Mới là Ông Gióng- Ông Giống Họ Hùng xưa, Thời đại nay!
Là Con Người ai cũng phải Sống, ai cũng cần Sự Sống-Cuộc sống Làm Người, ai cũng có Chánh Tâm-Chánh Ý- Chánh Sống- Chánh Sáng….-.Chánh Trí là Chánh Trị của Chính Mình, của mỗi con người, không có gì ngăn che được dưới Ánh sáng Mặt Trời!….
Một Thánh Gióng ngàn xưa đã vươn vai đứng dậy- Muôn Thánh Gióng ngày nay sẽ Đứng Dậy, Điệp trùng sánh vai ……
(Nhớ lại ngày 9.12.2007, tuổi trẻ Hà Nội-Sài Gòn đã xuống đường biểu tình tỏ thái độ phản đối Quốc Vụ Viện Trung Quốc phê chuẩn thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa nhằm quản lý quần đảo Hoàng Sa, Trung Sa và Trường Sa của Việt Nam)
2007
CÁI GỐC
Nguyễn Duy
Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ *
Thượng sách muôn đời lấy dân làm gốc
nhân dân đây
cái gốc quốc gia này.
Bán mặt cho đất
bán lưng cho trời
nhân dân mẹ cha
nhân dân ông bà
nhân dân tổ tiên
nhân dân nguồn cội
hột gạo củ khoai nuôi nấng cả giống nòi.
Mảnh đất truyền đời
chát mồ hôi
đắng máu
lớp lớp anh hùng áo vải
lớp lớp xác người giữ đất
vẫn nhân dân.
Sao nên nỗi người cày không có ruộng
luật hoang vu hoang hoá nhân tình ?
Sao có kẻ sống mọt đời vắt vểu
ăn quả trên cành tè axit gốc cây ?
Ai ủ cái ung mủ tanh khoang mũi
ngửi hoa hồng sặc một mùi hôi ?
Ai nuôi cái mù loà đáy mắt
nhìn nhân dân ngấp ngoáng bóng thù ?
Ai lăm lăm đẩy dân sang phía địch
tự biến thành thù địch trước nhân dân ?
Lai tỉnh
hỡi lương tri
lai tỉnh !
(Những ngày đau trong bệnh viện, tháng Tư, 2017)
* Lật thuyền mới biết dân là nước (Quan hải, Nguyễn Trãi)
https://www.diendan.org/sang-tac/cai-goc
“Thời đại tôi đang sống”
Nguyễn Thị Thanh Yến!
Thời đại tôi đang sống
Trẻ con học chữ cái không bắt đầu bằng chữ a
Tiếng gọi đầu tiên không phải là bà
và trên vai đã chất chồng khoản nợ
Thời đại tôi đang sống
Cứ mở mắt là thấy mình khó ở
Tháng tư vấn vương hoa sữa
Đông sang vẫn nóng như hè
Trẻ con không đón hè bằng những tiếng ve
mà bằng iphon, ipad
Thức ăn ngập tràn các market
Nhưng nuốt vào mồm là ngập hoá chất dư thừa
Thời đại bây giờ ai cũng như lừa
Chỉ biết phận mình, thản nhiên bịt tai còn mặc đâu thiên hạ
Vào trang các hót gơn hót boi like còm tung lả tả
Chuyện xã hội đau nhưng nhức lại im lìm
Thời đại bây giờ con người sống thiếu hẳn trái tim
Mượn gió bẻ măng, gắp lửa bỏ tay người đâu ra mà nhiều thế
Thượng tầng nát bươm hạ tầng lẽ nào không thể
Ngỡ các đấng nam nhi đang mặc váy thay quần
Xã hội bây giờ người chế tạo máy bay lại là nông dân
Ông tiến sĩ cất bằng đi nuôi lợn
Người hiền lành luôn thua người bặm trợn
Chân thực ngủ vùi cho xảo trá lên ngôi
Thời đại bây giờ thủ khoa là con hộ đói mà thôi
Nhưng tuổi trẻ tài cao đương nhiên là con sếp
Bài thơ thần ngàn đời bất diệt
Bỗng đâu tan vì cái mới lên ngồi
Thời đại bây giờ thiên hạ um xùm vì mất một con ruồi
Con voi lọt qua lỗ kim thì thản nhiên công nhận
Lấy hoạt động từ thiện nuôi thân còn mang lòng thù hận
Rắp tâm gieo tiếng ác cho người
Thời đại gì mà thương cái thân tôi
Bao chuyện trái ngang cứ vờ như không biết
Tai vẫn tinh mà như bị điếc
Miễn sao không vơi cơm vơi gạo nhà mình
Có những lúc trách mình rồi lại tự phân minh
Phận mình đàn bà biêt sinh con nuôi con là đủ
Những thứ lớn lao mang tầm vũ trụ
Xin nhường cho cánh đàn ông…
Đã thế rồi mà nhiều khi vẫn thấy lông bông
Ngơ ngác trước “Bụi Chương Mỹ, đĩ Đồ Sơn”
có khả năng trở nên thành ngữ
Niềm tin lung lay trước một xã hội hèn, mình cũng hèn đủ thứ
Dạy con thế nào đây trước bộn bề sóng gió cuộc đời
Tự thấy mình như kẻ dở hơi
Dẫu không còn trẻ vẫn muốn sinh thêm đứa nữa
Lại lo lúc ra đời trán con in dòng chữ
“Nợ ngân sách” mẹ ơi!!!”NGUYỄN THỊ THANH YẾN-Binh Le (Fb)
Kyo York – Đừng để tiếng Việt khóc thành «Tiếq Việt»
+Không đơn giản chỉ là cải cách chữ viếtKyo York, tác giả bài viết. Ảnh FB
Tôi càng choáng váng hơn khi ngài cho rằng cải cách để người nước ngoài học tiếng Việt dễ hơn?
Xin mượn lời bài hát của nhạc sĩ Đức Trí để khép lại:
“Tiếng Việt còn trong mọi người, người Việt còn thì còn nước non
Giữ tiếng Việt như ngày nào, hào hùng xưa mãi vọng ngàn sau.”
Xin vui lòng cân nhắc khi đọc bài viết không xuyên tạc mà chia sẻ, không chỉ trích mà thắc mắc và giãi bày.
FB KYO YORK 30.11.2017
Mạ tôi : đưa con về Làng
6 giờ trước-chỉ mình tôi!
Trung tâm Đà Lạt : làm đẹp hay phá vỡ không gian kiến trúc?
Mai Thái Lĩnh
Khu Hoà Bình Đà Lạt trước 1975
Ngày 2/1/2018, trên báo Tuổi Trẻ có bài viết nhan đề “Lo ngại không gian đặc hữu Đà Lạt bị phá vỡ”, trong đó nêu lên mối lo ngại về việc không gian kiến trúc của Đà Lạt có thể bị phá vỡ vì dự án 3.000 tỷ nhằm “biến khu Hòa Bình (TP Đà Lạt) thành một trung tâm thương mại – dịch vụ phức hợp hiện đại”.
Để biện minh cho nhu cầu hiện đại hóa toàn bộ khu trung tâm cũ, ông Lê Quang Trung – giám đốc Sở Xây dựng tỉnh Lâm Đồng, giải thích: “khu Hòa Bình được xác định là khu đô thị du lịch tầm cỡ quốc gia và quốc tế”, trong khi “xét về thực tế, khu trung tâm này chưa đạt được tầm vóc tương xứng của nó về các yếu tố lịch sử, văn hóa và du lịch.”
Về nội dung của đồ án, ông cho biết:
– Trong diện tích 30ha được quy hoạch theo đồ án, sẽ giao khoảng 6ha (khu vực rạp Hòa Bình) để Công ty cổ phần địa ốc Đại Quang Minh đầu tư xây dựng khu trung tâm thương mại hiện đại.(…) Theo dự kiến, cuối tháng 1-2018, “Đồ án quy hoạch chi tiết và thiết kế đô thị – tỉ lệ 1/500 khu vực trung tâm Hòa Bình, TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng” sẽ được phê duyệt xong và sau đó tiến hành công tác giải tỏa, xây dựng một trung tâm mới gần như hoàn toàn.
– Theo quy hoạch, khu Hòa Bình sẽ được xây dựng thành một khu trung tâm thương mại có khách sạn 5 sao, có các khu dân cư chỉnh trang và một không gian công cộng từ trung tâm Hòa Bình xuống chợ Đà Lạt đến đường Lê Thị Hồng Gấm, từ phía trước chợ trải dài đến bùng binh cầu Ông Đạo.”
Để trấn an mối lo ngại “công trình hiện đại sẽ làm mất cây xanh”, ông Trung cho biết “quy hoạch mới sẽ khống chế chiều cao các tòa nhà tại khu trung tâm này, tất cả đều không được vượt quá 5 tầng. Tất cả các khu vực đã có cây xanh vẫn đảm bảo giữ lại tuyệt đối. Đặc biệt, khi làm quy hoạch này chúng tôi cũng đã gắn với hồ Xuân Hương. Tại đây, các khu vực dân cư ở đường Phan Bội Châu, giáp với chợ sẽ giải tỏa để trồng cây xanh đô thị và hoa, hay là khách sạn Hải Sơn cũng sẽ giải tỏa, tất cả công trình trước chợ sẽ giải tỏa, thay thế bằng không gian hoa, không gian công cộng có hoa, cây xanh, thảm cỏ, giảm mật độ xây dựng toàn khu, không cất thêm công trình”.
Phụ họa với đương kim Giám đốc Sở Xây dựng là ý kiến của KTS Trần Đức Lộc, “nguyên” trưởng phòng quy hoạch kiến trúc Sở Xây dựng Lâm Đồng:
“Đối với khu trung tâm Hòa Bình và chợ Đà Lạt (nói riêng) – cũng như các khu chức năng đặc thù khác của TP Đà Lạt và vùng phụ cận (nói chung) – phải cảm nhận được “hồn đô thị” từ phác thảo mô hình của phương án quy hoạch và nhận diện được hình thái kiến trúc từ các công trình điểm nhấn, tạo nên bộ mặt đô thị “khu trung tâm lịch sử” của TP Đà Lạt tương lai, mang đậm nét đặc trưng văn hóa phương Tây.
Hình ảnh đô thị mới của khu trung tâm TP Đà Lạt làm cho nhân dân và du khách thấy được sự tiếp nối từ ký ức một thời của “Đà Lạt xưa” và sự trưởng thành, phát triển của một “Đà Lạt mới” – mang dáng dấp một “kinh đô Paris thu nhỏ” (Petite Paris) tại VN.
TP Đà Lạt phải chọn kinh tế du lịch làm động lực phát triển đô thị (và ngược lại), hướng tới xây dựng TP ngang tầm với một số TP du lịch nổi tiếng trong khu vực châu Á và châu Âu…”
“Hồn đô thị” của một thành phố du lịch nằm ở đâu?
Trung Tâm Chợ Đà Lạt trước khi là Khu hoà Bình
Có hai điều khó hiểu trong lập luận của các tác giả đồ án nói trên:
– Ý tưởng so sánh Đà Lạt như một “kinh đô Paris thu nhỏ”(nguyên văn : Petite Paris!).
Trước hết, Đà lạt là một thành phố du lịch miền núi, không phải là một thành phố đồng bằng, một trung tâm chính trị-kinh tế như Paris. Các nhà thiết kế đô thị người Pháp đã từng quy hoạch và chỉnh trang thành phố này (từ Ernest Hébrard, Louis-Georges Pineau cho đến Jacques Lagisquet) hầu như không một ai dựa vào mô hình Paris. Nếu muốn tìm một thành phố để làm mẫu cho Đà Lạt, có lẽ nên tìm một thành phố nào đó có đồi núi như một thành phố ở Thụy Sĩ hay thành phố Québec[1] ở Canada chứ sao lại dựa vào mô hình Paris? Hơn thế nữa, Paris thu hút du khách thế giới là do các khu phố cổ kính mang tính lịch sử, văn hóa chứ đâu phải chỉ nhờ vào khu thương mại – dịch vụ hiện đại La Défense?
– Ở các quốc gia Âu-Mỹ, hầu hết các thành phố du lịch nổi tiếng đều duy trì các khu phố cũ, coi đó là nơi thu hút khách du lịch, chứ không tìm cách “làm mới gần như hoàn toàn khu trung tâm cũ”. Vì thế, biện pháp chính là “chỉnh trang” chứ không phải là “quy hoạch”.
Chợ Mexico tại khu phố cổ của Los Angeles.
Những ai đã từng đến Los Angeles chắc hẳn đã đến thăm khu phố cổ nổi tiếng ở đường Olvera (El Pueblos de Los Angeles) – chiếc nôi sinh ra thành phố Los Angeles. Nơi đây có chợ Mexico giàu màu sắc, có công viên Los Angeles Plaza Park với các sinh hoạt văn nghệ sôi nổi, có ngôi nhà cổ Avila Adobe, có quảng trường Los Angeles Plaza với các công trình kiến trúc kiểu Tây Ban Nha. Từ xưa đến nay, có lẽ các Thị trưởng cũng như Hội đồng Thành phố Los Angeles cũng chưa bao giờ có có ý tưởng hiện đại hóa khu phố này bằng các công trình hoàn toàn mới. Ấy thế mà khu phố cổ này hàng năm thu hút khoảng 2 triệu du khách!
Quảng trường Los Angeles Plaza. Trong ảnh là Nhà ga Union xây dựng vào thập niên 1930.
Tất nhiên, Los Angeles vẫn có các khu thương mại-dịch vụ hiện đại vào bậc nhất thế giới, nhưng được xây dựng ở một nơi khác chứ không phải bằng phương thức hiện đại hóa bộ mặt của các khu phố cũ.
Ở Canada, mỗi khi bước chân đến các thành phố du lịch nổi tiếng như Montréal hay Québec, du khách đều bị hấp dẫn bởi các khu vực được gọi là Vieux-Montréal (Old Montreal, Montréal cổ), Vieux-Québec (Old Quebec, Québec cổ). Đó mới chính là cái “hồn đô thị” của các thành phố du lịch, chứ không phải các trung tâm thương mại-dịch vụ hiện đại. Đáng chú ý nhất là khu phố cổ của thành phố Québec, thủ phủ của tỉnh bang Québec, với địa hình đồi dốc, đường phố quanh co, nhỏ hẹp tương tự như Đà Lạt ngày xưa. Với diện tích 1,4 km2, khu vực này được chính thức thành lập vào năm 1963 và đến năm 1985, được UNESCO đưa vào danh sách Di sản Thế giới (World Heritage).
Nói cách khác, “hồn” của một thành phố du lịch không nhất thiết phải nằm ở bộ mặt hiện đại hóa của khu trung tâm. Và ngay cả kinh đô Paris vừa được nhắc đến, thành phố này nổi tiếng nhờ các khu phố cổ, cho nên khi xây dựng khu thương mại-dịch vụ hiện đại La Défense vào thập niên 1990, người ta đã chọn một vùng ngoại ô ở phía tây-bắc Paris chứ không tìm cách hiện đại hóa các khu phố cũ.
Số phận của Đồi “Dinh Thị trưởng”:
Một trong những di sản của Đà Lạt cần bảo vệ là “Đồi Dinh Thị trưởng”[2] cũ, với cao độ 1523m (xem bản đồ Đà Lạt 1960). Để hiểu được nét đẹp độc đáo của công trình kiến trúc-cảnh quan này, có lẽ chúng ta phải xem lại hai bức ảnh toàn cảnh của nhà nhiếp ảnh Trần Văn Châu đã được đăng trong tập san Sử Địa số 23-24 (1971). Ở đây, tôi chỉ xin trích đăng lại một phần của tấm ảnh thứ hai, chụp năm 1966. Nhìn vào tấm ảnh này, chúng
ta thấy “Đồi Dinh Thị trưởng” không chỉ bao gồm một công trình kiến trúc mà còn là một phong cảnh tuyệt đẹp, một vị trí hiếm có. Nếu xây dựng xung quanh dinh thự này một công viên, chúng ta sẽ có được một điểm ngoạn cảnh[3] tuyệt vời, từ đó du khách có thể ngắm được toàn cảnh thành phố với nhiều góc nhìn khác nhau. Trong thời đại ngày nay, với những máy ảnh, điện thoại thông minh, máy tính bảng,… du khách có thể chụp được những tấm ảnh tuyệt đẹp.
Dinh Thị trưởng Đà Lạt và rặng thông tuyệt đẹp (trích từ ảnh của Trần Văn Châu)
Có thể lấy một điểm ngoạn cảnh tương tự để so sánh. Tại San Francisco, có Đồi Telegraph (Telegraph Hill), xưa kia là một địa điểm để báo hiệu tàu thuyền sắp cập bến. Năm 1929, bà Lillie Hitchcock Coit trước khi mất đã hiến một phần ba tài sản để làm đẹp thành phố. Số tài sản này đã được dùng để xây dựng một tháp bê-tông cao 64m, lấy tên là Tháp Coit (Coit Tower). Tháp này trở thành một công trình nghệ thuật với những bức bích họa (tranh tường) do 27 họa sĩ vẽ. Ngày nay, du khách có thể mua vé leo lên đỉnh tháp nhìn ngắm thành phố hoặc chụp ảnh. Không cần leo lên tháp, du khách vẫn có thể ngoạn cảnh và chụp ảnh từ công viên Pioneer Park. Tất nhiên, để có được một điểm ngoạn cảnh hấp dẫn như thế, các công trình kiến trúc xung quanh Đồi Telegraph không được phép vượt quá một độ cao nhất định.
Trở lại với “đồ án quy hoạch khu trung tâm Đà Lạt”, chúng ta thấy mặc dù có lời hứa hẹn bảo tồn Dinh Thị trưởng cũ, nhưng không có quy định nào để bảo đảm tầm nhìn từ đỉnh đồi ra xung quanh. Chỉ có một quy định rất mơ hồ “quy hoạch mới sẽ khống chế chiều cao các tòa nhà tại khu trung tâm này, tất cả đều không được vượt quá 5 tầng”. Các tác giả của đồ án này đã quên (hay cố tình quên) một điều: khu trung tâm Đà Lạt có địa hình đồi dốc chứ không bằng phẳng. Vì thế, một tòa nhà 5 tầng ở đường Phan Bội Châu có thể cao gần gấp đôi một tòa nhà 5 tầng ở mặt bằng chợ Đà Lạt.
Nhìn vào hiện trạng của khu trung tâm, chúng ta thấy trong thời gian gần đây rất nhiều cao ốc đã mọc lên, bao vây và che khuất tầm nhìn từ Đồi Dinh Thị trưởng cũ. Vì vậy, việc “bảo tồn” dinh thự này chỉ còn mang tính hình thức vì đã đánh mất giá trị của vị trí địa lý có một không hai của ngọn đồi này.
Đồ án “3 ngàn tỷ” làm đẹp hay phá vỡ không gian kiến trúc của Đà Lạt?
Các cao ốc bao vây Đồi “Dinh Thị trưởng”
Mặc dù “Đồ án quy hoạch chi tiết khu trung tâm Đà Lạt” với tỷ lệ 1/500 chưa được phê duyệt chính thức, trong thực tế hàng loạt công trình đã được khởi công, thậm chí đã hoàn thành. Điều đó cho thấy việc trưng bày đồ án “để người dân, du khách xem, đóng góp ý kiến” thật ra chỉ là một thủ thuật
Hai tòa cao ốc của Dalat Center đang phá vỡ không gian kiến trúc của Đà Lạt
để đánh lừa công luận, không có ý nghĩa thiết thực nào cả. Cứ nhìn vào hai tòa cao ốc của Dalat Center mọc lên sừng sững án ngữ ngay trước mặt Đồi Dinh Thị trưởng cũng đủ thấy rõ những người chủ trì đã thực hiện một phần quan trọng của đồ án trước khi công bố nó. Họ đã cố tình buộc người dân Đà Lạt phải chấp nhận đồ án như một “việc đã rồi”!
Người dân có quyền nghi ngờ động cơ thật sự của những người chủ trì đồ án. Phải chăng đồ án quy hoạch “3 ngàn tỷ” chỉ nhằm phục vụ cho một số “đại gia” nào đó chứ không nhằm làm đẹp cho thành phố? Phải chăng mục đích chính của họ chỉ là “giải tỏa, đền bù với giá rẻ mạt” để giao các mảnh đất vàng vào tay các nhà đầu cơ địa ốc nhằm thu các khoản siêu lợi nhuận khổng lồ bằng mọi giá? Điều đau xót là trong khi hàng loạt công ty bất động sản từ đâu đó nhảy vào xâm chiếm các mảnh đất cũ, phá hủy cây xanh để xây dựng các khối bê-tông khổng lồ, phá hoại không gian kiến trúc của khu phố cũ thì nhiều cư dân đã sinh sống lâu đời trên đường Phan Bội Châu với đầy đủ giấy tờ hợp pháp sẽ bị giải tỏa để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của các “đại gia” – với sự yểm trợ của một số quan chức địa phương và trung ương.
Cuối bài báo đăng trên tờ Tuổi Trẻ, phóng viên trích lời ông Huỳnh Quốc, một du khách yêu Đà Lạt tỏ ý nghi ngờ hiệu quả của dự án, vì “chuyện nhãn tiền là cụm công trình trung tâm hành chính tỉnh Lâm Đồng, một khối công trình bê-tông đồ sộ trị giá hàng nghìn tỉ đồng, rất chướng mắt vì xa lạ với không gian Đà Lạt.” Ông nói thêm: “Giờ nghe khu Hòa Bình sẽ xây dựng thành trung tâm thương mại – dịch vụ phức hợp hiện đại nữa. Mới nghe đã giật mình”.
Quả thật, không giật mình sao được? Bởi vì sự thật nhãn tiền là: trong khi ở các nước “tư bản”, các địa điểm đẹp nhất, các mảnh đất vàng thường trở thành công viên – nghĩa là tài sản chung mọi người đều được hưởng, thì trên đất nước được mệnh danh là “xã hội chủ nghĩa” này, hình như các địa điểm đẹp nhất, các mảnh đất vàng ngày càng lọt vào tay các nhà tư bản đen, tư bản đỏ, với sự tiếp tay của các quan chức tham nhũng.
Đà Lạt, những ngày cuối năm Đinh Dậu
12/1/2018
MAI THÁI LĨNH
Tham khảo:
– Mai Thái Lĩnh, “Một Đà Lạt “thơ mộng” – còn hay mất”, 26/1/2011:
https://hung-viet.org/a4729/mot-da-lat-tho-mong-con-hay-mat
– Văn Bình, “Lo ngại không gian đặc hữu Đà lạt bị phá vỡ”, Tuổi Trẻ, 02/01/2018:
https://tuoitre.vn/lo-ngai-khong-gian-dac-huu-da-lat-bi-pha-vo-20180102091455492.htm
– Văn Bình, “Trung tâm Đà Lạt sẽ thay đổi gần như toàn diện”, Tuổi Trẻ 11/12/2017:
https://tuoitre.vn/trung-tam-da-lat-se-thay-doi-gan-nhu-toan-dien-20171211161625135.htm
[1] Thành phố Québec (Ville de Québec, tiếng Anh: Quebec City) là thủ phủ của tỉnh bang Québec, là thành phố lớn thứ hai của bang này, sau Montréal. Dân số : 531 902 người (2016). Dân số vùng đô thị (aire urbaine, metropolitan area) : 800 296 người (2016).
[2] Ngày nay, người ta thường gọi nhầm là “Đồi Dinh Tỉnh trưởng”. Sự nhầm lẫn này là do có một số thời kỳ, Thị trưởng Đà Lạt kiêm chức Tỉnh trưởng Tỉnh Tuyên Đức.
[3] Điểm ngoạn cảnh : scenic viewpoint, ở Úc hay Hoa Kỳ thường gọi là lookout. Trong tiếng Pháp : point de vue panoramique, point de vue touristique.
Viết gì về truyện ngắn “Bắt đầu và Kết thúc”?
Truyện của Quỳnh Nga không phải giải lịch sử, giải thiêng, hay giải huyền gì cả. Nó không giống lịch sử nhưng lại trùng khít với tư tưởng hệ đang thống trị trong lòng nhiều người cả xưa và nay: tư tưởng thần phục thiên triều và hữu nghị môi răng giữa hai quốc gia dân tộc.
Báo Văn Nghệ số 50 vừa ra. Truyện ngắn “Bắt đầu và Kết thúc” của Trần Quỳnh Nga có đề cập đến các nhân vật lịch sử Trần Ích Tắc, An Tư, Thoát Hoan. Về Trần Ích Tắc chính sử đã ghi rõ Tắc là kẻ bán nước cầu vinh còn trong truyện ngắn thì hắn lại là “một kẻ vì nước, mà hy sinh cả tiền tài, danh vọng và thân phận của mình để làm một kẻ nội gián”. Còn công chúa An Tư thì vì tình yêu đã che chở cho Thoát Hoan để cùng Thoát Hoan trốn về nước. Liệu tác giả câu chuyện có nhầm lẫn lịch sử chăng? Liệu đây có phải là hậu quả của việc tinh thần quật cường của dân tộc Việt đang bị lu mờ trong những thế hệ nối tiếp?.Kính mời bạn đọc bài bình luận về truyện ngắn này kèm theo nguyên bản truyện ngắn..
Cũng cần ghi chú thêm rằng: Bối cảnh của câu chuyện là việc Trấn Nam vương Thoát Hoan – tướng quân Nguyên đem quân sang đánh nước Đại Việt nhà Trần lần thứ hai. Quân Nguyên đã đóng quân ở bờ bắc sông Hồng, chuẩn bị vào chiếm thành Thăng Long và vua Trần Thánh Tông đã sai đưa công chúa An Tư gả cho Thoát Hoan để thư nạn cho nước, làm chậm bước tiến quân của địch.
Trong khi đó, hoàng tử Trần Ích Tắc, con của Trần Thái Tông, anh em cùng cha khác mẹ với vua Trần Thánh Tông đã dẫn gia quyến xin hàng quân Nguyên với tham vọng thế ngôi vị nhà Trần. Sử ta gọi Trần Ích Tắc là kẻ hèn nhát, phản trắc “cõng rắn cắn gà nhà” mang tội ác tày trời với dân tộc Việt.
Báo Văn Nghệ số 50 (16-12-2017, các trang 19-20-21)
Tương truyền, Thoát Hoan phải chui vào trong ống đồng cho quân lính khiêng để chạy trốn thoát về phương Bắc.
“An Tư công chúa vốn được nhân dân ta kính trọng bởi bà đã dám hy sinh cả danh tiết (và có thể cả tính mạng) thực hiện kế hoạch mỹ nhân kế của vua quan nhà Trần, để kìm chân quân giặc, giúp triều đình có đủ thời gian tập trung binh lực đánh giặc. Sau khi kháng chiến thành công, sử nhà Trần không có một dòng nào viết về bà, có thể là một cách bảo vệ bà, vì bà đang sống trên đất giặc.
Sử Trung Quốc ghi rằng, bà có hai con với Thoát Hoan, còn trong tiềm thức của dân tộc, bà là một tấm gương dũng liệt, hy sinh vì dân vì nước. Có tin là bà tự tử chứ không chịu theo Thoát Hoan về nước (Sau này viết “An Tư công chúa”, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng cũng sử dụng chi tiết này).”
Hư cấu hay xuyên tạc lịch sử?Nhà văn Trần Bảo Hưng
Tự kiểm đầu năm
Đào Hiếu
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc tàn ác (vì đã xoá sổ vương quốc Chămpa bằng bạo lực và khủng bố), ích kỷ (vì chỉ lo vun quén cho bản thân, cho phe đảng mà không nghĩ đến tổ quốc), vô cảm (vì dửng dưng trước những áp bức bất công), đố kỵ (vì thấy ai có tài thì ghét bỏ, loại trừ), ngu và hèn (vì đã chọn con đường sai, biết sai mà không dám từ bỏ)…
Nhưng bản chất tệ hại nhất chính là sự nhỏ nhen: Sau hơn 20 năm huynh đệ tương tàn làm chết hàng triệu “đồng bào ruột thịt”, ngày 30/4/1975, bên thắng cuộc vẫn chưa đủ hả hê, bèn đẩy hàng triệu “người Việt Nam thua cuộc” vào các trại cải tạo, bỏ thây nơi rừng thiêng nước độc. Và ép hàng triệu người khác vượt biển làm mồi cho cá.
Một dân tộc như vậy thật đáng sợ biết chừng nào!
Một dân tộc như vậy nên mới đẻ ra một đảng cầm quyền như vậy.
Tôi thật sự thất vọng về dân tộc mình.
So với dân tộc Mỹ sau cuộc nội chiến (1861-1865), dân tộc Nam Phi sau khi giành độc lập (1994), dân tộc Đức sau thống nhất (1990)… thì họ cao thượng hơn ta gấp ngàn lần.
Trong lịch sử, chúng ta đã từng “đánh thắng” Tàu, Pháp, Nhật, Mỹ nhưng thực chất chúng ta chỉ đánh thắng một bộ phận nhỏ lính viễn chinh xa ngàn dặm của họ, chứ chưa chưa hề có cuộc chiến tranh đối đầu tổng lực. Hơn nữa chúng ta đánh đuổi được những toán quân viễn chinh đó là nhờ dựa vào vũ khí và hậu cần của Nga và Tàu ở sát ngay biên giới.
Chính ông Lê Duẩn từng nói: “Chúng ta đánh Pháp, Mỹ là đánh cho Liên Xô và Trung Quốc.”
Vậy thì chiến thắng đó chẳng hay ho gì, chưa kể cái giá phải trả cho “chiến thắng” đó là “một thời kỳ Bắc thuộc mới vô cùng nguy hiểm” (Lời Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch)
Hiện nay chúng ta đang ở trong giai đoạn đầu của cái thời kỳ Bắc thuộc ấy. Vì lòng tham, sự ích kỷ và nhu nhược, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tự đưa đầu vào tròng của Trung cộng. Tiến thoái lưỡng nan.
Đó là cái giá mà chúng ta phải trả cho sự tàn ác, tham lam và ngu dốt của mình.
Ngày 7/1/2018
ĐÀO HIẾU
NGHĨ VỀ CON NGƯỜI ĐÀ LẠT!
Đà Lạt…xưa…
Đà lạt đã qua hơn một trăm năm hình thành và phát triển, Con Người Đà Lạt cũng qua ngần ấy chiều dài lịch sử để xây dựng nên thành phố và cũng từ đó đã hình thành nên chính mình – Con Người Đà Lạt !
…Ngoài con người bản địa – dân tộc Mlạt- K’Ho sống gắn với buôn làng, rừng núi, những con người lao động Việt Nam từ các miền đất nước – Thừa Thiên, Hà Đông-Nghệ-Tỉnh-Nam Ngãi, Bình Phú… đã đến Đà Lạt làm phu, mở đường xây dựng nên nơi nghỉ dưỡng của quan chức thực dân Pháp, ”Hoàng Triều Cương Thổ “ của Triều Nguyễn. Những con người ly hương đến vùng đất mới tìm sự sống, tạo nên cuộc sống trong bầu trời thiếu ánh sáng Độc Lập –Tự Do …Những đường ray, đường hầm xe lửa, đèo Ngoạn Mục, Prenn…lên Đà Lạt; Những con đường Triệu Việt Vương, Trần Hưng Đạo , Pasteur, Yersin…..Trần Phú … hôm nay, những Dinh I, Dinh II, Dinh Bảo Đại, Đà Lạt hotel , Palace, Đồi Cù; Những trường Đoàn Thị Điểm, Trần Hưng Đạo, Bùi Thị Xuân..; Chùa Linh Quang, Linh Sơn, Nhà Thờ Lớn …Con người lao động xây dựng nên cơ sở vật chất của thành phố và cũng đã xây dựng nên những giá trị văn hoá tinh thần cho cuộc sống Tâm linh Con Người Đà Lạt!…
Khí hậu thiên nhiên ưu đãi cho Con Người Đà Lạt hôm nay nhưng khắc nghiệt cho Con Người Đà Lạt ngày xưa-những con người cuộc sống cơ hàn, ly hương để xây dựng nên thành ! Trời Đà Lạt xưa dày đặc sương mù, lạnh giá! Hoa Quỳ Vàng-hướng về Ánh Sáng Mặt trời, Hoa khắp các núi đồi; Hoa mai, Mimôza…đỏ, vàng thấp thoáng trong ngàn thông, ẩn mình trong những ngôi Biệt thự… nhưng con người Đà Lạt thuở ấy có đủ mảnh vải che thân, miếng cơm ấm bụng ?! Đắp đập ngăn dòng suối Cam Ly-mặt nước Hồ Xuân Hương trong xanh từ đó! Rồi phố phường ngày mỗi mọc lên, lớn dậy, vươn lên trong những đầm lầy, thung lũng, ven đồi! Những thảm xanh của rau , màu hồng , vàng, đỏ, trắng… của Hồng, Lan, Mai, Cúc…mỗi ngày như nở một nụ cười tươi thêm yêu cuộc sống ! Con người Đà Lạt đã làm nên tất cả cho thành phố của mình ! Có Hà Nội mùa thu tháng tám, trời Đà Lạt cũng xua áng mây mù! Có chiến sĩ sông Lô, sông Đuống… Đà Lạt cũng”dậy sóng Hồ Xuân Hương “; Rồi Huế, Sài Gòn… vươn vai đứng dậy, Đà Lạt cũng rầm rập xuống đường tranh đấu !(…).Rồi, sau ngày được “cởi trói”, một “hành trình cuối đông” đòi dân chủ-tự-do-văn hoá nghệ thuật-cuộc-sống con người nước Việt…cũng lại bắt đầu …từ đỉnh Langbian !… Đà Lạt đã hoà nhịp bước đi trong dòng sống dân tộc hơn trăm năm của lịch sử đất nước! …
Đà Lạt đã đi qua hơn 110 năm, 5 thế hệ con người Đà Lạt cũng đã tiếp nối đi trong chiều dài hơn ngàn năm lịch sử và từ đó cũng đã hình thành nên những phẩm chất của mình – Phẩm Chất Tâm Hồn Con Ngưòi Đà Lạt !
Phải chăng những thảm rau xanh, những vườn hoa đầy màu sắc, thắm hương giữa lòng thành phố, trên những ven đồi, những ngôi biệt thự nằm trên những đồi núi thấp thoáng giữa ngàn thông, hài hoà với thiên nhiên, cuộc sống, mỗi người mỗi vẻ, dọc các con đường trong-ngoài thành phố Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Ngô Quyền, Bạch Đằng, Quang Trung, Triệu Việt Vương… đã hiện nên những nét tài hoa của Con Người Đà Lạt- con người yêu lao động, cần cù, thông minh, lao động có kỹ thuật, nghệ thuật … và đã hình thành nên những nghề truyền thống của mình -tranh cưa lọng, chạm bút lửa, trồng rau, trồng hoa, đan, thêu …!?.
Sống trên cao nguyên lạnh giá, sương mù của ngày đầu xây dựng, sống tha hương, rời quê cha, đất tổ từ mọi miền đất nước về đây hoà trong cuộc sống cộng đồng Làng, Nước ở vùng đất mới xa xôi, khí hậu trong lành, trời đất im ắng, yêu thương cội nguồn Tổ Tiên…phải chăng đã tạo nên Con Người Đà Lạt Cuộc Sống Tâm Linh, phong thái lịch sự, nhã nhặn, chân thật, hiền hoà, mến khách, …; cách ăn mặc kín đáo, giản dị, màu sắc dịu dàng ấm áp, hài hoà cùng các màu xanh của núi, ngàn sắc của hoa, muôn Ý Mặt Trời như Hoa Quỳ, Hướng Dương!!.Và có lẽ, Đà Lạt, một miền đặc trưng của cả nước-Con Người Đà Lạt có thể nghe-hiểu giọng nói của mọi miền đất nước và trong giọng nói có sắc âm riêng của mình-Giọng Đà Lạt ! Phải chăng trong giao tiếp mỗi người từ giọng nói từng miền quê gốc của mình –Huế, Đà Nẵng, Hà Tĩnh, Hà Đông, Nam, Ngãi, Bình, Phú…đồng thời cộng hưởng không gian, pha màu thời gian, chan hoà với nhau trong giọng nói để cho nhau thông, cảm và hiểu Ý của nhau!…Rồi qua nhiều thế hệ, Con Người Đà Lạt đã hình thành nên giọng nói của mình !?Và có thể nói thêm, giọng Con Người Đà Lạt, trong âm nhạc cũng mang màu sắc Đà Lạt !Người bản địa của Đà Lạt là dân tộc K’ho nhưng những làn điệu dân ca K’ho lại không biểu trưng cho âm thanh, tiếng hát, thấm đậm tâm hồn người Đà Lạt nhưng hài hoà cuộc sống với Con Người của Đất Trời Tây Nguyên, tự thắp lên Ngọn lửa chính mình sống cùng với Con Người cuộc sống Đất nước . Dù Đà Lạt là xứ của hoa Mimôza, Mai Anh Đào nhưng âm nhạc cũng không mang màu sắc hoa Anh Đào của xứ Phù Tang! Trong âm thanh nhiều giọng nói của mọi miền đất nước có âm thanh, giọng nói của người Đà Lạt; trong bức tranh nhiều màu sắc riêng ấy hài hoà màu sắc chung của đất nước!
Qua lao động xây dựng nên cuộc sống vật chất Con Người Đa lạt cũng hình thành nên phẩm chất tâm hồn, cuộc sống tâm linh và tất cả các giá trị cuộc sống tinh thần văn hoá của dòng văn hoá lịch sử Việt, đó là những giá trị đạo đức truyền thống của con người Việt Nam-trọng nhân nghĩa, sống Đạo lý, yêu Làng, Yêu Nước, yêu Quê, yêu Con Người, yêu Cuộc Sống, có Thuỷ có Chung, tin vào các giá trị Thiêng Liêng..Bởi vậy, văn hoá Đình, Làng của các vùng-miền đất nước vẫn sống trong từng cộng đồng dân cư Đalạt, và những ngôi Chùa, Nhà thờ.. cũng được xây dựng trong Tâm hồn của mỗi Con Người và trên từng vùng đất người Đa lạt lập nghiệp, sinh sôi..! Những tính cánh, cuộc sống, phẩm chất Tâm hồn Con Nguời Đa lạt đã và đang hình thành…
Đất Trời Đà Lạt, Con Người Đà Lạt, Những đỉnh núi -Lâm Viên- Núi Mẹ- Langbiang, Núi Voi, Hồ Than Thở, Mê Linh, Rừng Aí Ân, cả Đồi Cù…, những đồi Thông, Rừng Thông, Suối Thác, những con đường Hoa -Mi Mô sa, Mai Anh Đào, những vườn hoa trong mỗi vườn nhà, mỗi Con Người Đà Lạt… cùng với những Đồi, Núi, muôn Chim, muôn Hoa…sáng đẹp trong Trời Xanh nắng Vàng thắm như đậm thêm muôn màu sắc xây dựng nên Đàlạt ….nay như đang hoài nhớ…. Ngàn xưa, ngày xưa!…
…. Người Đà Lạt hôm nay sao …Nhớ!
Đà Lạt có còn Đà Lạt…..?!